NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÁI TẠO XƯƠNG Ổ RĂNG BẰNG BỘT XƯƠNG NHÂN TẠO IN VIVO |
IN VIVO EVALUATION OF THE ABILITY OF BIPHASIC CALCIUM PHOSPHATE IN ALVEOLAR BONE REGENERATION |
Tác giả: Nguyễn Thị Thùy Dương, Lê Mỹ Hương, Nguyễn Mai Anh, Hoàng Minh Phương, Lê Văn Trị, Nguyễn Thanh Tùng |
Đăng tại: Tập 11 (03); Trang: 27 |
Tóm tắt bằng tiếng Việt: |
Đặt vấn đề: Xương ổ răng có thể bị phá hủy bởi nhiều nguyên nhân như chấn thương, u và nang xương hàm, nhiễm trùng và mất răng, ảnh hưởng đến chức năng, thẩm mỹ, sự thoải mái và tự tin ở bệnh nhân. Nhằm tái tạo lại phần khuyết hổng xương ổ răng, bên cạnh xương tự thân, các loại vật liệu sinh học vô cơ và có tế bào đang được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong đó có Biphasic Calcium Photphat (BCP). Do đó, việc nghiên cứu một mô hình khuyết hổng xương ổ răng trên động vật nhằm đánh giá quá trình tạo xương và tiềm năng của vật liệu trước khi ứng dụng trên lâm sàng là rất cần thiết. Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lành thương sau tái tạo khuyết hổng xương ổ răng và kết quả tái tạo khuyết hổng xương ổ răng bằng Xquang và phân tích mô học. Qua đó tạo ra một mô hình thử nghiệm đánh giá tiềm năng của các loại vật liệu trước khi ứng dụng trên lâm sàng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 18 con thỏ trắng, đực, thuần chủng, khỏe mạnh trọng lượng trọng lượng 2,5 ± 0,2kg, 8-10 tuần tuổi, được chia làm 2 nhóm: nhóm chứng, nhóm bột xương. Tiến hành tạo khuyết hổng xương ổ răng ở 2 nhóm sau đó thực hiện tái tạo ở nhóm bột xương (bằng bột xương nhân tạo BCP). Đánh giá đặc điểm lành thương ở 2 nhóm sau 1, 3, 5, 7, 14 ngày sau phẫu thuật và đánh giá tái tạo xương ổ răng bằng Xquang và phân tích mô học sau 2, 4, 6 tuần. Kết quả: Điểm lành thương ở mỗi nhóm tăng dần từ ngày 1 đến ngày 14, có ý nghĩa thống kê kể từ ngày 5. Điểm lành thương của nhóm bột xương cao hơn nhóm chứng nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Điểm Xquang ở mỗi nhóm tăng dần từ tuần 2 đến tuần 6, có ý nghĩa thống kê ở tuần thứ 6 (p<0,05). Điểm Xquang của nhóm bột xương cao hơn nhóm chứng nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Mô liên kết mới hình thành nhóm chứng đạt cao nhất ở 4 tuần và giảm sau 6 tuần (p<0,05). Tuy nhiên, nhóm bột xương đạt lượng mô liên kết mới cao nhất ở 2 tuần và giảm dần sau 4 tuần và 6 tuần. (p<0,05). Lượng xương mới hình thành ở mỗi nhóm tăng có ý nghĩa thống kê từ 2 tuần đến 6 tuần. Lượng xương mới hình thành ở nhóm bột xương cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết luận: Mô hình trên cho phép chúng ta đánh giá khả năng tái tạo xương của các vật liệu khác nhau. Đồng thời, bột xương nhân tạo BCP là một vật liệu tiềm năng để tái tạo những khuyết hổng xương ổ răng trên lâm sàng. |
Từ khóa:Xương ổ răng, biphasic calcium phosphate, thỏ, tái tạo xương |
Abstract: |
Background: The alveolar bone can be damaged by a variety of causes such as trauma, bone tumors and cysts, infection and tooth loss, affecting function, aesthetics, comfort and confidence of the patient. In order to reconstruct the alveolar bone defect, besides autologous bone, cellular and inorganic biological materials are being developed and widely applied including Biphasic Calcium Phosphate (BCP). Therefore, it is very essential to establish an animal model of alveolar bone defect to evaluate the progress of bone formation and the potential of materials before clinical application. Materials and Methods: The study was performed on 18 white, male, healthy rabbits weighing 2.5 ± 0.2 kg, 8-to-10-week aged, divided into 2 groups: group 1 (control), group 2 (BCP). The alveolar bone defect formation was performed in 2 groups, then reconstructed with BCP (group 2). Evaluation of soft tissue healing characteristics in 2 groups after 1, 3, 5, 7, 14 days after surgery and assessment of alveolar bone regeneration by X-ray and histological analysis after 2, 4, 6 weeks. Results: Healing score in each group increased gradually from day 1 to day 14, having statistical significance from day 5. Healing score of 2 groups tended to increase gradually in order: control group < BCP group (p > 0.05). X-ray scores in each group increased from week 2 to week 6, with statistical significance at week 6 (p < 0.05). X-ray scores of 2 groups tended to increase in order: the control group < BCP group (p > 0.05). New connective tissue formed in the control group reached the highest at week 4 and decreased after week 6 (p <0.05). However, BCP group achieved the highest amount of newly formed connective tissue at week 2 and decreased gradually after week 4 and week 6 (p < 0.05). New bone formation in each group increased statistically from week 2 to week 6. The amount of newly formed bone in BCP group was significantly higher than in control group (p < 0.05). Conclusions: The above established model allows us to evaluate the capability of the bone regeneration of various materials. In addition, BCP is a potential material which can be used to reconstruct alveolar bone defects in patients. |
Key words: Alveolar bone, biphasic calcium phosphate, rabbits, bone regeneration |
|
|
|