Tạp chí Y Dược học - Tập 9 (01) năm 2019
Lê Thanh Nhã Uyên, Hà Thị Minh Thi, Nguyễn Viết Nhân
2019 - Tập 9 (01), trang 7
Đặt vấn đề: Sẩy thai liên tiếp là một vấn đề sức khỏe quan trọng trong sản khoa. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều nhiên cứu cho thấy vai trò của yếu tố di truyền trong cơ chế bệnh sinh của sẩy thai liên tiếp. Một số nghiên cứu đã công bố đa hình C677T của gene MTHFR là một yếu tố nguy cơ của sẩy thai liên tiếp. Tuy nhiên, kết quả công bố này vẫn còn nhiều tranh cãi. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm khảo sát mối liên quan giữa đa hình C677T của gene MTHFR với sẩy thai liên tiếp.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 100 phụ nữ không có tiền sử sẩy thai và 52 phụ nữ có tiền sử sẩy thai liên tiếp. Các kiểu đa hình tại vị trí C677T được xác định bằng kỹ thuật PCR-RFLP.
Kết quả: Tỷ lệ đa hình 677CC, 677CT, và 677TT ở nhóm phụ nữ có tiền sử sẩy thai liên tiếp lần lượt là 65,4%, 30,8%, 3,8%; trong khi tỷ lệ các đa hình này ở nhóm chứng là 86%, 12%, và 2% (χ2 = 8,83; p = 0,012). Kiểu gene 677CT làm tăng nguy cơ bị sẩy thai liên tiếp gấp 3,37 lần so với kiểu gene 677CC (95%CI: 1,44 – 7,87; p = 0,0049). Kiểu gene (677CT + 677TT) làm tăng nguy cơ bị sẩy thai liên tiếp gấp 3,25 lần so với kiểu gene 677CC (95%CI: 1,46 – 7,26; p = 0,004), và allele T làm tăng nguy cơ cao gấp 2,74 lần so với allele C (95%CI: 1,55 – 5,55, p = 0,005).
Lê Thanh Nhã Uyên, Hà Thị Minh Thi, Nguyễn Viết Nhân. (2019). Nghiên cứu mối liên quan giữa đa hình C677T của gene MTHFR với sẩy thai liên tiếp ở phụ nữ Việt Nam. Tạp chí Y Dược học, , 7. DOI: 10.34071/jmp.2019.1.1
Tạp chí Y Dược học thuộc Trường Đại học Y Dược- Đại học Huế được phép hoạt động báo chí theo giấy phép số 1720/GP-BTTTT ngày 15 tháng 11 năm 2010 và được Bộ Khoa học – Công nghệ cấp mã số ISSN 1859-3836 theo Quyết định số 009/TTKHCN-ISSN ngày 22 tháng 03 năm 2011
tcydhue@huemed-univ.edu.vn
0234-3824663
© 2010-2023
Tạp chí Y Dược học .
Cơ quan chủ quản: Trường Đại học Y-Dược Huế
Giấy phép xuất bản bản in số 1720/GP-BTTTT ngày 15/11/2010 của Bộ Thông tin và Truyền thông