Tạp chí Y Dược học - Tập 7 (03) năm 2017
Phùng Phướng
2017 - Tập 7 (03), trang 45
Đặt vấn đề: Phù tay sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú triệt căn trong ung thư vú là một biến chứng muộn, gặp với tỷ lệ rất khác nhau, thay đổi từ 6-70%. Phù tay có thể xuất hiện ngay hoặc nhiều năm sau điều trị, phần lớn trường hợp xảy ra trong 18 tháng đầu.
Mục đích: Nghiên cứu tỷ lệ phù tay và các yếu tố liên quan về tuổi, kích thước khối u, tình trạng di căn hạch nách, xạ trị và hóa trị ở bệnh nhân phù tay sau phẫu thuật ung thư vú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 164 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn I, II, III đã được điều trị phẫu thuật cắt vú triệt căn cải biên, hóa trị, xạ trị, nội tiết tùy theo giai đoạn bệnh và được theo dõi từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2016 tại bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả, đo chu vi của tay trước và sau phẫu thuật.
Kết quả: Tỷ lệ phù tay sau phẫu thuật triệt căn ung thư vú là 38,4%, trong đó phù nhẹ 19,5%, phù trung bình 13,4% và phù nặng 5,5%. Các yếu tố: tuổi, kích thước khối u, tình trạng di căn hạch nách, phương pháp điều trị có liên quan đến tỷ lệ phù tay.
Kết luận: Phù tay là một bệnh biến chứng muộn ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật triệt căn. Cần theo dõi chặt chẻ và phát hiện kịp thời để điều trị thích hợp.
Phùng Phướng. (2017). Tỷ lệ và các yếu tố nguy cơ phù tay ở những bệnh nhân sau phẫu thuật cắt vú triệt căn do ung thư vú. Tạp chí Y Dược học, , 45. DOI: 10.34071/jmp.2017.3.6
Tạp chí Y Dược học thuộc Trường Đại học Y Dược- Đại học Huế được phép hoạt động báo chí theo giấy phép số 1720/GP-BTTTT ngày 15 tháng 11 năm 2010 và được Bộ Khoa học – Công nghệ cấp mã số ISSN 1859-3836 theo Quyết định số 009/TTKHCN-ISSN ngày 22 tháng 03 năm 2011
tcydhue@huemed-univ.edu.vn
0234-3824663
© 2010-2023
Tạp chí Y Dược học .
Cơ quan chủ quản: Trường Đại học Y-Dược Huế
Giấy phép xuất bản bản in số 1720/GP-BTTTT ngày 15/11/2010 của Bộ Thông tin và Truyền thông