Đặt vấn đề: Chửa trứng là bệnh của nguyên bào nuôi do thai nghén và có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe người phụ nữ. Bệnh có nhiều biến chứng như nhiễm độc, nhiễm trùng, xuất huyết, chửa trứng còn có biến chứng là ung thư nguyên bào nuôi với một tỷ lệ cao, có thể gây tử vong cho người bệnh. Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố nguy cơ ở thai phụ bị chửa trứng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh chứng, tiến hành trên 76 thai phụ vào Bệnh viện Trung ương Huế đã được chẩn đoán chữa trứng và 228 thai phụ ở nhóm chứng. Kết quả: Tuổi trung bình là 32,7± 6,7 nhỏ nhất là 17 tuổi, lớn nhất là 46 tuổi. Tiền sử nạo phá thai, sẩy thai, chiếm 10,5% ở nhóm chửa trứngvà 3,9% ở nhóm chứng với nguy cơ cao hơn 2,8 lần; 95% CI=1,1- 7,7 (p<0,05). Tiền sử chửa trứng chiếm 9,2% ở nhóm chửa trứngvà nguy cơ bị chữa trứng cao hơn 11,4 lần (95% CI = 2,3-56,4) so với nhóm chứng. Số lần sinh ≥4 lần chiếm tỷ lệ 7,9% ở nhóm chửa trứng và 2,2% ở nhóm chứng nguy cơ bị chữa trứng cao hơn 3,8 lần 95% CI= 1,1- 12,9 (p<0,05). Thai phụ ≤20 hoặc ≥40 tuổi ở nhóm chửa trứng nguy cơ bị chữa trứng cao hơn 2,4 lần (95% CI = 1,1-5,2) so với nhóm chứng. Mức sống thấp chiếm tỷ lệ 7,9% ở nhóm chửa trứng và 1,3 % ở nhóm chứng với OR=6,2; 95% CI= 1,5- 25,6. Nạo hút 2 lần chiếm tỷ lệ 87,5%; có 16 trường hợp phải nạo lại lần thứ 3 chiếm 17%. Không có trường hợp nào thủng tử cung, nhiễm trùng sau nạo. Kết luận: Quản lý tốt nhóm thai phụ có nguy cơ chửa trứng. Thai phụ nên đi khám thai để phát hiện bệnh chửa trứng sớm, theo dõi và tránh các biến chứng nguy hiểm xảy ra là rất cần thiết. |
Objectives: Molar pregnancy is the gestational trophoblastic disease and impact on the women’s health. It has several complications such as toxicity, infection, bleeding. Molar pregnancy also has high risk of choriocarcinoma which can be dead. Aim: To assess the risks of molar pregnancy. Materials and Methods: The case control study included 76 molar pregnancies and 228 pregnancies in control group at Hue Central Hospital. Results: The average age was 32.7 ± 6.7, the miximum age was 17 years old and the maximum was 46 years old. The history of abortion, miscarriage in molar group and control group acounted for 10.5% and 3.9% respectively, with the risk was higher 2.8 times; 95% CI = 1.1-7.7 (p<0.05). The history of molar pregnancy in molar pregnancy group was 9.2% and the molar pregnancy risk was 11.4 times higher than control group (95% CI = 2.3-56.4). The women having ≥ 4 times births accounted for 7.9% in molar group and 2.2% in control group, with the risk was higher 3.8 times, 95% CI= 1.1-12.9 (p<0.05). The molar risk of women < 20 and >40 years old in molar groups had 2.4 times higher than (95% CI = 1.1 to 5.2)h than control group. Low living standard was 7.9% in molar group and 1.3% in the control group with OR= 6.2; 95% CI= 1.5-25.6. Curettage twice accounted for 87.5%, there were 16 case need to curettage three times. There was no case of uterine perforation and infection after curettage. Conclusion: The high risk molar pregnancy women need a better management. Pregnant women should be antenatal cared regularly to dectect early molar pregnancy. It is nessecery to monitor and avoid the dangerous complications occuring during the pregnancy. |