Đặt vấn đề: Thai ngoài tử cung là nguyên nhân gây tử vong cao nhất trong sản khoa ở 3 tháng đầu thai kỳ, chiếm tỷ lệ 4 -10%. Trong những trường hợp thai ngoài tử cung có nồng độ β-hCG huyết thanh cao, tuần tuổi thai lớn thì rất dễ gây vỡ đưa đến những biến chứng nguy hiểm. Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố nguy cơ gây vỡ thai ngoài tử cung. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hồi cứu, tiến hành trên 113 bệnh nhân vào Bệnh viện Trung ương Huế đã được chẩn đoán và điều trị thai ngoài tử cung. Kết quả: Ở nhóm thai ngoài tử cung vỡ và ở nhóm thai ngoài tử tung chưa vỡ có tỷ lệ lần lượt: >35 tuổi chiếm tỷ lệ 38,6% và 15,9%; tuổi trung bình là 29,9± 5,4 và 27,8 ± 5,9; thai < 6 tuần chiếm 6,8% và 60,9%; thai 6- 8 tuần chiếm 52,3% và 34,8%, trên 8 tuần chiếm 40,9% và 4,3%. Nồng độ βhCG(IU/ml) trung bình ở nhóm thai ngoài tử cung vỡ là 5423 ± 5879,9 IU/ml; βhCG >5000 (IU/ml) chiếm 50%. Ở nhóm thai ngoài tử cung chưa vỡ là 2423 ± 3879,9 IU/ml; βhCG > 5000 (IU/ml) chiếm 5,8%. Nguy cơ thai ngoài tử cung vỡ cao hơn 2,42 ở tuổi mẹ >35 với 95% CI= 1,03-5,65. Tuổi thai lớn hơn 8 tuần nguy cơ thai ngoài tử cung vỡ cao hơn 15,2 lần với 95% CI= 4,1- 56,1. Nguy cơ thai ngoài tử cung vỡ cao hơn 16,2 lần nếu βhCG (IU/ml) >5000 với 95% CI= 5,0-52,3. Chỉ số dự báo các ngưỡng βhCG có nguy cơ gây vỡ thai ngoài tử cung tại vị trí βhCG 4190 (IU/ml) tương ứng với độ nhạy 88,6%, độ đặc hiệu là 67,3%; diện tích dưới đường cong ROC của βhCG là 90% (95%CI; 1,1- 8,6). Kết luận: Mức độ βhCG cao hơn đặc biệt là > 5000 IU/ml, và tuổi thai cao hơn có liên quan với tăng nguy cơ vỡ trong thai ngoài tử cung. Cần theo dõi lâm sàng kỹ những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ vỡ thai ngoài tử cung để có hướng điều trị kịp thời hạn chế các biến chứng nguy hiểm cho bệnh nhân. |
Background: Ectopic pregnancy is the highest mortality cause in the first trimester of pregnancy, accounted for 4 -10%. Ectopic pregnancy which has high level of β-hCG, older gestation age makes it easy to rupture and leading to several dangerous complications. Aim: To studiely the risk factors for ruptured ectopic pregnancy. Methods: A retrospective cross-sectional descriptive, including 113 patients at Hue Central Hospital who has been diagnosed and treatment of ectopic pregnancy. Results: The ruptured ectopic pregnancy group and unruptured ectopic pregnancy group has: > 35 years old accounted for 38.6% and 15.9%; The average age was 28.9 ± 5.4 and 27.8 ± 5.9; < 6 weeks gestational age accounted for 6,8% and 60,9%; 6 – 8 weeks gestational age was 52.3% and 34.8%, over 8 weeks has proportion of 40.9% 4.3%, respectively. The average βhCG concentration (IU/ml) in ruptured ectopic pregnancy group was 4423 ± 5879.9 IU/ml; βhCG > 5000 (IU/ml) accounted for 50%, in the unruptured ectopic pregnancy group was 2423 ± 3879,9 IU/ml; βhCG> 5000 (IU/ml) accounted for 5,8%. With maternal age > 35, the risk of ruptured ectopic pregnancy was higher 2.42(95% CI= 1.03-5.65). Gestational age > 8 weeks, the risk of ruptured ectopic pregnancy was higher 15.2(95% CI= 4.1- 56.1). The risk of ruptured ectopic pregnancy was higher 16.2 with βhCG (IU/ml) >5000 (95% CI= 5.0-52.3). The threshold predictive index of βhCG leading to ruptured ectopic pregnancy under the ROC curve was 0.9 of βhCG (95% CI= 1.1- 8.6). At the level 4190 (IU/ml) βhCG concentration corresponding to 88.6% sensitivity, 67.3% specificity. Conclusion: According to our study, higher βhCG levels, especially >5000 IU/ml, and higher gestational age are associated with increased risk of rupture in ectopic pregnancy. It is nessecery to monitor carefully of patients with risk factors for ruptured ectopic pregnancy for suitable treatment which lead to decrease the risk of complications. |